Gọi ngay
Chat với chúng tôi qua Zalo
Facebook Messenger
Đặt mua Sporanox IV 10mg/ml

    Bạn vui lòng nhập đúng số điện thoại để chúng tôi sẽ gọi xác nhận đơn hàng trước khi giao hàng. Xin cảm ơn!

    Địa điểm mua hàng

    • Cam kết thuốc chính hãng, giá tốt
    • Đổi trả hàng trong 15 ngày
    • Giao hàng toàn quốc, nhận hàng → trả tiền
    • Dược sĩ giỏi tư vấn trực tiếp

    HOẠT CHẤT

    Itraconazole

    THÀNH PHẦN

    Cho 1ml:
    Itraconazole 10mg

    Dược lực
    Phân loại dược lý điều trị:
    Thuốc kháng nấm sử dụng hệ thống, dẫn xuất triazole mã ATC : J02A C02
    Itraconazole, một dẫn xuất triazole, có phổ kháng nấm rộng.
    Các nghiên cứu in vitro cho thấy itraconazole làm giảm sự tổng hợp ergosterol trong tế bào vi nấm. Ergosterol là thành phần thiết yếu của màng tế bào vi nấm. Ngăn không cho tổng hợp ergosterol tạo nên hiệu quả kháng nấm.
    Đối với itraconazole, điểm xác định độ nhạy với thuốc (breakpoint) chỉ được thiết lập cho Candida spp. từ bệnh nhiễm nấm nông (CLSI M27-A2, breakpoint không được thiết lập đối với phương pháp EUCAST).
    Điểm breakpoint theo CLSI như sau: nhạy cảm ≤ 0,125; nhạy cảm, phụ thuộc liều 0,25-0,5 và đề kháng ≥ 1mcg/mL. Các điểm breakpoint có thể diễn dịch đã không được thiết lập cho nấm sợi.
    Các nghiên cứu in vitro cho thấy itraconazole ức chế sự phát triển của nhiều loại vi nấm gây bệnh cho người ở nồng độ thông thường ≤ 1 mcg/ml. Các vi nấm này bao gồm:
    Vi nấm ngoài da (các chủng Trichophyton spp., Microsporum spp., Epidermophyton floccosum) nấm men (các chủng Candida bao gồm C. albicans, Cryptococus neoformans, Malassezia spp., Trichosporon spp., Geotrichum spp.); Aspergillus spp.; Histoplasma spp.; Paracoccidioides brasiliensis; Sporothrix schenckii; Fonsecaea spp.; Cladosporium spp.; Blastomyces dermatitidis; Coccidiodes immitis; Pseudallescheria boydii; Penicillium marneffei; và các vi nấm và nấm men khác.
    Candida krusei, Candida glabrata và Candida tropicalis thường là các chủng Candida kém nhạy cảm nhất, ở vài thử nghiệm phân lập trong ống nghiệm cho thấy chúng đề kháng với itraconazole.
    Các loại vi nấm chính không bị ức chế bởi itraconazole là Zygomycetes (Rhizopus spp., Rhizomucor spp., Mucor spp. và Absidia spp.), Fusarium spp., Scedosporium spp. và Scopulariopsis spp.
    Sự đề kháng azole có vẻ hình thành chậm và thường là kết quả của nhiều đột biến gen. Các cơ chế đã được mô tả gồm sự biểu hiện quá mức của ERG11, vốn mã hóa enzym đích 14 á-demethylase, các đột biến điểm trong ERG11 dẫn đến sự giảm ái tính với đích và/hoặc sự biểu hiện quá mức của chất vận chuyển làm tăng bơm ra ngoài. Đề kháng chéo giữa các azole đã được quan sát thấy ở Candida spp., mặc dù sự đề kháng của 1 thuốc trong nhóm không nhất thiết có nghĩa là đề kháng với các azole khác. Chủng nấm Aspergillus fumigatus đã được báo cáo có đề kháng với itraconazole.
    Dược động học
    Dược động học của itraconazole đường tĩnh mạch được khảo sát trên những người khỏe mạnh và các bệnh nhân sau khi sử dụng đơn liều và đa liều, và trong những nhóm bệnh nhân đặc biệt sau khi sử dụng đơn liều.
    Chế độ đa liều bao gồm truyền itraconazole 200 mg trong 1 giờ ngày hai lần vào ngày điều trị thứ 1 và 2, sau đó truyền 200 mg trong 1 giờ ngày một lần từ ngày thứ 3 tới ngày 7.
    Mỗi liều 200 mg itraconazole tĩnh mạch chứa 8 g hydroxypropyl-â-cyclodextrin để làm tăng tính hòa tan của itraconazole. Những dữ liệu dược động học của mỗi thành phần sẽ được mô tả bên dưới (Xem Itraconazole; xem Các nhóm bệnh nhân đặc biệt-Suy thận, Hydroxypropyl-â-Cyclodextrin.)
    Itraconazole
    Các tính chất dược động học chung
    Nồng độ đỉnh trong huyết tương của itraconazole đạt được tại thời điểm kết thúc 1 giờ truyền.
    Itraconazole được chuyển hóa mạnh ở gan thành nhiều chất chuyển hóa. Chất chuyển hóa chính là hydroxy-itraconazole có hoạt tính kháng nấm in vitro tương đương itraconazole. Nồng độ chất chuyển hóa này trong huyết tương gấp 2 lần itraconazole. Mối quan hệ dược động học của itraconazole có đặc trưng là không tuyến tính và, do đó có sự tích tụ trong huyết tương sau nhiều lần dùng lập lại. Trạng thái nồng độ hằng định đạt được sau liều itraconazole IV thứ tư và liều thứ bảy đối với hydroxy-itraconazole. Nồng độ đỉnh trung bình sau 4 liều itraconazole IV 200mg ở những người khỏe mạnh là 3021 ng/ml với itraconazole và 1450 ng/ml đối với hydroxy-itraconazole, trong khi giá trị nồng độ tối thiểu trung bình lần lượt là 523 ng/ml và 959 ng/ml. Nồng độ thanh thải trung bình của toàn bộ itraconazole trong huyết tương sau khi dùng đường tĩnh mạch là 278 ml/phút. Thời gian bán hủy trung bình của itraconazole là khoảng 35 giờ ở trạng thái hằng định.
    Phân bố
    Hầu hết itraconazole trong huyết tương kết hợp với protein (99,8%) với albumin là thành phần gắn kết chính (99,6% cho chất chuyển hóa hydroxy). Nó cũng có ái tính mạnh với lipid. Chỉ có 0,2% itraconazole là tồn tại dưới dạng thuốc tự do trong huyết tương. Itraconazole được phân bố ở thể tích biểu kiến lớn trong cơ thể (>700L), phân bố nhiều ở mô: nồng độ ở mô phổi, thận, gan, xương, dạ dày, lách và cơ, cao gấp 2-3 lần nồng độ tương ứng ở huyết tương, sự thâm nhập của thuốc vào các tổ chức sừng, đặc biệt là da đến 4 lần cao hơn trong huyết tương. Tỉ lệ ở mô não so với huyết tương vào khoảng 1.
    Chuyển hóa
    Itraconazole được chuyển hóa mạnh ở gan thành nhiều chất chuyển hóa. Các nghiên cứu in vitro cho thấy, CYP 3A4 là enzym chính có liên quan đến sự chuyển hóa của itraconazole. Chất chuyển hóa chính là hydroxy-itraconazole có hoạt tính kháng nấm in vitro tương đương itraconazole.
    Thải trừ
    Thải trừ qua thận của itraconazole và chất chuyển hóa hoạt tính hydroxy-itraconazole chiếm ít hơn 1% liều tĩnh mạch. Dựa trên liều uống, sự thải trừ qua phân của dạng thuốc không đổi trong khoảng từ 3% tới 18% của liều dùng. Itraconazole được thải trừ chủ yếu dưới dạng chất chuyển hóa không hoạt tính trong nước tiểu (35%) và trong phân (54%) trong vòng một tuần sau một liều uống.
    Nhóm bệnh nhân đặc biệt
    Suy gan
    Không có nghiên cứu nào được thực hiện với itraconazole IV ở những bệnh nhân suy gan. Itraconazole chủ yếu được chuyển hóa ở gan. Đơn liều uống (viên nang 100mg) đã được dùng ở 12 bệnh nhân xơ gan và 6 người khỏe mạnh ở nhóm chứng; nồng độ đỉnh (Cmax), AUC và thời gian bán hủy itraconazole được đo và so sánh giữa các nhóm. Ở nhóm bệnh nhân xơ gan, Cmax trung bình của itraconazole giảm rõ rệt (giảm 47%). Thời gian bán thải trung bình kéo dài hơn nhóm không bị suy gan (37 giờ so với 16 giờ). Tổng nồng độ itraconazole, dựa vào AUC là tương đương nhau ở nhóm xơ gan và nhóm khỏe mạnh. Không có dữ liệu về việc dùng itraconazole lâu dài ở những bệnh nhân suy gan mãn (Xem phần Liều và cách dùng và phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
    Suy thận
    Một phần nhỏ (<1%) của một liều itraconazole đường tĩnh mạch được bài tiết không đổi qua nước tiểu.
    Sau khi dùng liều đơn tĩnh mạch, thời gian bán hủy trung bình của itraconazole ở những bệnh nhân suy thận nhẹ (CrCL 50-79 ml/ phút), trung bình (CrCL 20-49 ml/phút) và suy thận nặng (CrCl <20 ml/min) thì tương tự như ở những người khỏe mạnh (ngưỡng trung bình lần lượt 42-49 giờ ở những bệnh nhân suy thận và 48 giờ ở người khỏe mạnh.) Nồng độ phơi nhiễm chung của itraconazole, dựa trên AUC, thì giảm ở những bệnh nhân suy thận trung bình khoảng 30% và suy thận nặng khoảng 40% so với những người có chức năng thận bình thường.
    Chưa có dữ liệu ở những bệnh nhân suy thận điều trị lâu dài với itraconazole. Lọc thận thì không có tác động trên thời gian bán hủy hay thải trừ itraconazole hoặc hydroxy-itraconazole (Xem thêm phần Liều lượng và cách dùngChống chỉ định, và Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
    Hydroxypropyl-â-Cyclodextrin
    Ở những bệnh nhân có chức năng thận bình thường, dữ liệu dược động học của hydroxypropyl-â-cyclodextrin, một thành phần của dạng bào chế SPORANOX IV, có thời gian bán hủy ngắn 1 đến 2 giờ, và chứng tỏ không có sự tích lũy sau các liều liên tiếp hằng ngày. Ở những người khỏe mạnh và ở những bệnh nhân có suy giảm chức năng thận từ nhẹ tới nặng, phần lớn của liều 8 g hydroxypropyl-â-cyclodextrin được thải trừ trong nước tiểu. Sau một liều tĩnh mạch đơn itraconazole 200 mg, sự thanh thải của hydroxypropyl-â-cyclodextrin bị giảm ở những người suy thận, kết quả là nồng độ hydroxypropyl-â-cyclodextrin trong máu sẽ cao hơn. Ở những người có chức năng thận giảm nhẹ, trung bình hay nặng, thì thời gian bán hủy của thuốc sẽ cao hơn so với giá trị bình thường lần lượt khoảng hai, bốn hay sáu lần. Ở những bệnh nhân này, việc truyền liên tục có thể dẫn đến tích tụ hydroxypropyl-â-cyclodextrin cho tới khi đạt tới tình trạng hằng định. Hydroxypropyl-â-cyclodextrin bị thải bởi lọc thận.
    An toàn tiền lâm sàng
    Itraconazole
    Itraconazole đã trải qua bộ thử nghiệm chuẩn về các nghiên cứu an toàn tiền lâm sàng.
    Những nghiên cứu độc tính cấp với itraconazole trên chuột nhắt, chuột cống, chuột lang và chó cho thấy giới hạn an toàn rộng. Những nghiên cứu độc tính mạn đường uống trên chuột cống và trên chó cho thấy độc tính mạn ở nhiều cơ quan hoặc mô đích như: vỏ thượng thận, gan và hệ đại thực bào đơn nhân cũng như các rối loạn chuyển hóa lipid thể hiện bằng những tế bào xanthoma trong nhiều cơ quan khác nhau.
    Ở liều cao, khảo sát mô học của vỏ thượng thận cho thấy sự phù nề có thể hồi phục với sự phì đại của lớp reticularis và fasciculata của vỏ thượng thận, thỉnh thoảng kèm với sự mỏng đi của lớp glomerulosa. Sự thay đổi ở gan có thể hồi phục được thấy ở liều cao. Sự thay đổi nhẹ được thấy trong các tế bào xoang tĩnh mạch và sự tạo khoang trong bào tương của tế bào gan, điều này cho thấy rối loạn chức năng tế bào, nhưng không có biểu hiện viêm gan hay hoại tử tế bào gan. Sự thay đổi mô học của hệ thống thực bào đơn nhân được đặc trưng chính bởi đại thực bào với sự tăng những chất tương tự protein trong nhiều mô nhu mô.
    Không có dấu hiệu nào cho thấy itraconazole có khả năng gây đột biến gen.
    Itraconazole không phải là một chất có khả năng gây ung thư trên chuột nhắt hay chuột cống. Tuy nhiên trên chuột đực, có tần suất sarcom mô mềm cao hơn, có thể do tăng các phản ứng viêm mạn, không ác tính của mô liên kết như là một hệ quả của mức tăng cholesterol và cholesterol hóa trong mô liên kết.
    Không có bằng chứng nào cho thấy có ảnh hưởng chính trên sự sinh sản khi điều trị với itraconazole. Itraconazole được cho là gây tăng có liên quan liều trong độc tính trên mẹ, độc tính cho phôi thai, và gây dị tật thai trên chuột cống và chuột nhắt ở liều cao. Trên chuột cống, dị tật thai bao gồm những khiếm khuyết hệ xương chính; trên chuột nhắt dị tật thai bao gồm thoát vị não và phì đại lưỡi.
    Mật độ khoáng trong xương thấp hơn đã được quan sát thấy ở những con chó chưa trưởng thành sau khi dùng itraconazole kéo dài.
    Trong ba nghiên cứu độc tính trên chuột cống, itraconazole gây ra các khiếm khuyết xương. Các khiếm khuyết xương do nghiên cứu gây ra gồm giảm hoạt tính trên xương dẹt, làm mỏng đi những khoang xương lớn và tăng khả năng dễ gãy xương.
    Hydroxypropyl-â-cyclodextrin (HP-â-CD)
    Những nghiên cứu độc tính liều đơn trên chuột nhắt, chuột cống và chó cho thấy giới hạn an toàn rộng sau khi tiêm HP-â-CD. Trong những nghiên cứu độc tính bán cấp này, hầu hết các tác động đều được điều chỉnh về bản chất (những thay đổi mô học trong đường niệu, hoạt hóa của MPS) và cho thấy khả năng hồi phục tốt.
    Sự thay đổi nhẹ ở gan xảy ra với liều cao gấp 25 lần liều HP-â-CD khuyến nghị sử dụng trên người. HP-â-CD không gây vô sinh, không gây độc trực tiếp phôi thai và không gây dị dạng thai. Cấu trúc hóa học của HP-â-CD cũng không gây nghi ngờ khả năng gây độc gen. Những xét nghiệm trên các tổn thương của DNA, đột biến gen và bất thường chromosome in vitro và in vivo không biểu lộ bất kì tác động gây độc trên gen nào của HP-â-CD.

    CÔNG DỤNG – CHỈ ĐỊNH

    * SPORANOX IV được chỉ định để điều trị các trường hợp nhiễm nấm hệ thống:
    – Nhiễm nấm Aspergillus;
    – Nhiễm nấm Candida;
    – Nhiễm nấm Cryptococcus (bao gồm viêm màng não do Cryptoccocus): trên những bệnh nhân suy giảm miễn dịch nhiễm Cryptococcus và trên mọi bệnh nhân nhiễm Cryptococcus ở hệ thần kinh trung ương, SPORANOX IV chỉ được chỉ định khi điều trị ban đầu được coi như không phù hợp hoặc cho thấy không hiệu quả;
    – Nhiễm nấm Histoplasma.
    * SPORANOX IV cũng được chỉ định trong điều trị theo kinh nghiệm trên những bệnh nhân sốt giảm bạch cầu mà nghi ngờ nhiễm nấm hệ thống.

    CÁCH DÙNG – LIỀU DÙNG

    Sản phẩm này được cung cấp với dây nối có khóa van hai chiều và bộ lọc 0.2 micromét bên trong. Dây nối được thiết kế chuyên biệt bao gồm bộ lọc bên trong phải được sử dụng để đảm bảo sản phẩm được sử dụng đúng (Xem phần Hướng dẫn sử dụng)
    SPORANOX IV được sử dụng trong hai ngày đầu với liều tấn công hai lần mỗi ngày, sau đó dùng liều một lần mỗi ngày.
    Ngày điều trị thứ 1 và 2: truyền 200 mg trong 1 giờ (60 ml dung dịch đã pha) SPORANOX IV hai lần mỗi ngày. Xem phần Hướng dẫn sử dụng.
    Từ ngày thứ 3 trở đi: truyền 200 mg trong 1 giờ (60 ml của dung dịch đã pha) SPORANOX IV mỗi ngày. Độ an toàn cho khoảng thời gian dài hơn 14 ngày chưa được xác định.
    Đối với việc điều trị theo kinh nghiệm cho những bệnh nhân sốt giảm bạch cầu có nghi ngờ nhiễm nấm hệ thống, điều trị nên được tiếp tục với dung dịch SPORANOX đường uống cho tới khi giải quyết được đáng kể tình trạng giảm bạch cầu trên lâm sàng. Đối với việc điều trị nhiễm aspergillus, nhiễm Candida, nhiễm Cryptococcus (bao gồm viêm màng não do Cryptococcus) và nhiễm Histoplasma, việc điều trị nên được tiếp tục với SPORANOX viên uống.
    Sử dụng ở trẻ em
    Vì chưa có dữ liệu lâm sàng cho việc sử dụng SPORANOX IV trên bệnh nhân nhi, không được dùng SPORANOX IV cho trẻ em trừ khi lợi ích điều trị cao hơn hẳn nguy cơ có thể xảy ra (Xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
    Sử dụng ở người lớn tuổi
    Vì dữ liệu lâm sàng về sử dụng SPORANOX IV trên người lớn tuổi còn hạn chế, khuyên chỉ nên sử dụng SPORANOX IV trên những bệnh nhân này khi lợi ích điều trị cao hơn hẳn nguy cơ có thể xảy ra (Xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
    Sử dụng trên những bệnh nhân suy ganDữ liệu còn hạn chế đối với việc sử dụng itraconazole trên những bệnh nhân suy gan. Nên thận trọng khi sử dụng thuốc ở nhóm bệnh nhân này (Xem phần Dược động học)
    Sử dụng trên những bệnh nhân suy thận
    Dữ liệu còn hạn chế đối với việc sử dụng itraconazole đường tĩnh mạch trên những bệnh nhân suy thận.
    Hydroxypropyl-â-cyclodextrin, một thành phần cần có trong công thức bào chế của SPORANOX đường tĩnh mạch, được thải trừ qua lọc cầu thận. Vì vậy, trên những bệnh nhân có suy thận được định nghĩa là độ thanh thải creatinine dưới 30 ml/phút thì việc dùng SPORANOX IV bị chống chỉ định (Xem phần Chống chỉ định)
    Trên những bệnh nhân có suy thận mức độ nhẹ đến trung bình, phải thận trọng khi sử dụng SPORANOX IV. Nồng độ creatinine huyết thanh phải được theo dõi chặt chẽ và, nếu nghi ngờ có độc thận, thì nên cân nhắc đổi qua dạng SPORANOX viên nang (Xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng và phần Dược động học).
    Hướng dẫn sử dụng
    Itraconazole có khuynh hướng kết tủa khi 25 ml SPORANOX IV nguyên chất được pha trong dung môi khác hơn 50 ml dung môi tiêm Natri Chloride 0,9%. Tổng lượng đầy đủ 25 ml SPORANOX IV nguyên chất từ ống tiêm phải được pha vào trong túi truyền chứa Natri Chloride, là túi được thiết kế chuyên biệt để dùng với dung dịch thuốc SPORANOX IV. Chỉ sử dụng các thành phần của đơn vị đóng gói bán hàng (như túi truyền NaCl, dây nối với khóa 2 đầu và bộ lọc trong ống 0.2micromét, và ống tiêm Sporanox IV). SPORANOX IV không được truyền chung với bất kì loại thuốc hay dung dịch nào khác (Xem phần Tương kị).
    Trước khi bắt đầu quá trình pha, SPORANOX IV nguyên chất, chất hòa tan (Natri Chloride) phải được kiểm tra bằng mắt. Chỉ những dung dịch trong suốt không lẫn bất kỳ phần tử nào khác mới được sử dụng để pha.
    Tổng lượng SPORANOX IV nguyên chất phải được bơm vào túi NaCl trong một lần bơm chậm duy nhất (lên đên 60 giây). Trong suốt quá trình pha, có thể xuất hiện màu trắng sữa nhưng sẽ trở nên trong suốt sau khi pha trọn nhẹ nhàng. Khi kiểm tra bằng mắt thường túi sau khi pha và trước khi truyền, có thể quan sát thấy tủa sản phẩm nội tại. Tủa này không ảnh hưởng chất lượng của sản phẩm. Dây nối chuyên biệt với bộ lọc 0.2 micromét phải được sử dụng để ngăn các tủa này đi vào hệ tuần hoàn của người nhận.
    SPORANOX IV phải được dùng tuân theo các hướng dẫn sau: chỉ khi được pha chính xác như trong hướng dẫn sử dụng mới được dùng
    Mở ống tiêm
    – Bẻ ống tiêm
    Mở túi Natri chloride
    – Xé bao bên ngoài tại chỗ khía chữ V và lấy túi dịch truyền ra.
    Pha dung dịch thuốc SPORANOX IV và dịch pha tiêm Natri Chloride 0,9%
    – Mỗi thành phần phải để ở nhiệt độ phòng.
    – Chỉ pha trong túi truyền được cung cấp.
    – Sử dụng kĩ thuật vô khuẩn và kim rút thuốc có chiều dài phù hợp (không kèm trong bộ kit), rút hết thuốc từ ống tiêm và sau đó đưa dung dịch thuốc SPORANOX IV nguyên chất vào trong túi truyền bằng cách đâm kim và bơm vào đầu đưa thuốc vào. Bơm toàn bộ thể tích (25 ml) dung dịch thuốc SPORANOX IV vào túi trong một lần bơm chậm duy nhất (lên đến 60 giây). Trong quá trình pha có thể xuất hiện màu trắng sữa. Đây là hiện tượng bình thường đối với sản phẩm và sẽ biến mất sau khi toàn bộ 25ml SPORANOX IV được hòa tan trong túi truyền NaCl và sau khi trọn nhẹ nhàng. Rút kim ra sau khi đã bơm SPORANOX IV vào trong túi.
    – Trộn nhẹ nhàng các thành phần trong túi một khi dung dịch thuốc SPORANOX IV đã được bơm hết vào túi. Dung dịch truyền sẽ trở nên trong suốt nhưng có thể quan sát thấy tủa nội tại (được mô tả là có sợi đến giống như bông, mờ mờ đến có những hạt màu trắng riêng biệt). Những tủa này không ảnh hưởng chất lượng sản phẩm.
    – Dung dịch sau khi pha nên được sử dụng ngay lập tức và nên được bảo vệ tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp. Trong lúc tiêm truyền, tiếp xúc với ánh sáng bình thuờng trong phòng thì chấp nhận được (Xem Hạn sử dụng và Những lưu ý đặc biệt khi bảo quản)
    Thao tác tráng ống trước khi truyền:
    Trước khi truyền, catheter phải được tráng để tránh vấn đề tương kỵ giữa lượng tồn đọng của thuốc khác và itraconazole
    – Làm đầy dây nối được cung cấp trong bộ kit có bộ lọc 0.2 micromét bên trong bằng dung dịch NaCl 0.9% đã tiệt trùng và nối trực tiếp vào catheter tĩnh mạch.
    – Tráng dây nối được cung cấp trong bộ kit và catheter tĩnh mạch bằng dung dịch NaCl 9.0% đã tiệt trùng
    Tiêm truyền
    – Dung dịch pha được dự định để truyền đơn liều. Không sử dụng dung dịch đề truyền nếu dung dịch có màu trắng sữa không biến mất sau khi trộn nhẹ nhàng hoặc chứa vật thể lạ hoặc nếu túi truyền bị hỏng.
    – Túi truyền phải chứa 25 ml SPORANOX IV và 50 ml dung môi tiêm Natri Chloride 0,9%.
    – Chú ý: Một đường truyền với bầu đếm giọt không được cung cấp theo bộ kit. Đóng dụng cụ kiểm soát dòng chảy (như khóa van) gắn trên đường truyền. Loại bỏ phần có thể bẻ gãy của đầu ra. Dùng kĩ thuật vô khuẩn, đẩy kim của đường truyền vào trong cổng ra của túi truyền.
    – Mở chậm khóa van và làm đầy một nửa bầu đếm giọt bằng cách bóp nhẹ.
    – Mở khóa van đến khi tất cả các khí bị đầy khỏi dây truyền
    – Gắn dây truyền vào cái khóa van hai đầu của dây nối.
    – Dịch truyền SPORANOX bây giờ đã sẵn sàng để truyền cho bệnh nhân.
    – Chỉnh tốc độ truyền là 1 ml/phút (khoảng 25 giọt/phút) bằng cách chỉnh van lưu lượng (van xoay hoặc bơm truyền).
    – Truyền 60 ml dung dịch thuốc đã pha này cho bệnh nhân trong khoảng 1 giờ.
    – Ngưng khi đã truyền được 60 ml.
    – Lưu ý rằng 200 mg itraconazole đã được truyền cho bệnh nhân.
    – Tráng đường truyền theo các thao tác mô tả bên dưới.
    Thao tác tráng ống sau khi truyền:
    – Sau khi truyền, phải tráng ống để làm sạch catheter. Điều này được thực hiện nhằm tránh các vấn đề tương kỵ thuốc giữa lượng itraconazole đọng ở catheter và những thuốc khác mà có thể được truyền sau đó qua cùng một catheter.
    – Tráng ống nối và catheter bằng 15-20 ml dung dịch vô trùng natri chloride 0,9% ở mức khóa van 2 đầu, ngay trước bộ lọc 0.2 micromét trong ống
    – Tráng bằng dòng chảy liên tục từ 30 giây đến 15 phút.
    – Sau khi tráng, gỡ và bỏ túi đựng dịch truyền, dây truyền và dây nối.
    – Không được khử trùng lại và dùng lại bộ dụng cụ truyền của SPORANOX.
    Để tránh kết tủa, những thuốc khác chỉ được truyền qua catheter sau khi đã tráng ống.
    Nếu đang dùng loại catheter nhiều ống, không được tiêm các thuốc khác trước khi truyền xong SPORANOX IV và catheter đã được tráng xong.

    TÓM TẮT CÁC BƯỚC THỰC HIỆN:

    * Rút hết lượng Sporanox IV trong ống bằng bơm và kim tiêm
    * Đâm kim vào giữa đầu đưa thuốc vào túi truyền NaCl, tránh chạm kim tiêm vào phần nước bên trong.
    * Bơm toàn bộ lượng trong bơm tiêm vào túi truyền NaCl trong một lần bơm chậm duy nhất (lên đến 60 giây)
    * Sau khi bơm xong, trộn túi nhẹ nhàng cho đến khi dung dịch truyền trở nên trong suốt.
    * Tráng trước dây nối với bộ lọc bên trong và catheter với dung dịch NaCl 0.9% tiệt trùng
    * Loại bỏ phần có thể bẻ gãy ở đầu ra của túi truyền NaCl và đâm kim của dây truyền vào.
    * Làm đầy dây truyền với dung dịch Sporanox IV đã pha và gắn với dây nối có bộ lọc bên trong. Điều chỉnh tốc độ truyền 1ml/phút (khoảng 25 giọt/phút)
    * Ngưng khi đã truyền được 60ml sau khoảng một giờ. Sau khi hoàn tất việc truyền, dây nối với bộ lọc bên trong và catheter phải được tráng với 15-20ml dung dịch NaCl 0.9% đã tiệt trùng. Gỡ và bỏ túi đựng dịch truyền, dây truyền và dây nối.

    QUÁ LIỀU

    Trong trường hợp quá liều, nên áp dụng các biện pháp hỗ trợ. Itraconazole không thể được loại bỏ bằng lọc thận.
    Không có thuốc đối kháng đặc hiệu.

    CHỐNG CHỈ ĐỊNH

    SPORANOX IV chống chỉ định ở những bệnh nhân đã biết có quá mẫn cảm với thuốc hay bất kì thành phần nào của thuốc.
    – Không thể dùng SPORANOX IV khi có chống chỉ định sử dụng Natri Chloride đường tĩnh mạch. Thành phần tá dược hydroxypropyl-â-cyclodextrin được thải trừ qua lọc cầu thận. Vì vậy, SPORANOX IV bị chống chỉ định trên những bệnh suy thận nặng (được xác định khi độ thanh thải creatinine dưới 30 ml/phút) (Xem phần Liều dùng và phương pháp sử dụng, phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng và phần Dược động học)
    – Những thuốc sau bị chống chỉ định dùng chung với SPORANOX IV (xem thêm phần Tương tác thuốc):
    * Các thuốc được chuyển hóa bởi CYP3A4 mà có thể gây kéo dài khoảng QT như: astemizole, bepridil, cisapride, dofetilide, levacetylmethadol (levomethadyl), mizolastine, pimozide, quinidine, sertindole và terfenadine thì chống chỉ định dùng chung với SPORANOX IV. Khi dùng chung có thể làm tăng nồng độ các thuốc này trong huyết tương, dẫn đến kéo dài khoảng QT và một số trường hợp hiếm có thể xảy ra xoắn đỉnh.
    * Các thuốc ức chế men HMG-CoA reductase được chuyển hóa bởi CYP3A4 như lovastatin và simvastatin.
    * Các thuốc triazolame và midazolame uống.
    * Các thuốc ergot alkaloid như là dihydroergotamine, ergometrine (ergonovine), ergotamine và methylergometrine (methylergonovine).
    * Nisoldipine
    – Không được sử dụng SPORANOX IV cho phụ nữ có thai (ngoại trừ những trường hợp đe dọa tính mạng). Xem phần Lúc có thai và lúc nuôi con bú.
    – Phụ nữ có khả năng mang thai nếu dùng SPORANOX IV phải sử dụng các biện pháp tránh thai. Nên tiếp tục sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả sau khi kết thúc điều trị SPORANOX IV cho tới kì kinh kế tiếp.

    THẬN TRỌNG

    Ảnh hưởng lên tim mạch
    Trong một nghiên cứu trên những người tình nguyện khỏe mạnh sử dụng SPORANOX IV, có sự giảm thoáng qua không có triệu chứng của phân suất tống máu thất trái được quan sát thấy; sự giảm này tự hết trước khi truyền liều tiếp theo.
    Itraconazole cho thấy có hiệu ứng inotrope (co bóp cơ tim) âm và có một số báo cáo suy tim sung huyết ở bệnh nhân dùng SPORANOX. Suy tim thường được báo cáo trong số những báo cáo tự phát ở bệnh nhân dùng tổng cộng 400 mg/ngày hơn nhóm dùng liều thấp hơn, gợi ý rằng nguy cơ suy tim có thể tăng khi tổng liều itraconazole trong ngày tăng.
    Không nên dùng SPORANOX ở những bệnh nhân bị suy tim sung huyết hoặc có tiền sử suy tim sung huyết trừ khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ. Bác sĩ nên đánh giá cẩn thận những nguy cơ và lợi ích của chế độ điều trị SPORANOX cho những bệnh nhân đã biết có những yếu tố nguy cơ của suy tim sung huyết. Những yếu tố nguy cơ này bao gồm: bệnh thiếu máu cục bộ và bệnh van tim, bệnh phổi nặng: như là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; suy thận và các bệnh lý gây phù khác. Những bệnh nhân này phải được thông báo, theo dõi chặt chẽ những triệu chứng cơ năng và thực thể của suy tim sung huyết trong suốt thời gian điều trị. Nếu thấy có triệu chứng xuất hiện, phải ngưng sử dụng SPORANOX.
    Những thuốc chẹn kênh Calci có thể có hiệu ứng inotrope âm, nên có thể cộng hợp với hiệu ứng của itraconazole. Ngoài ra, itraconazole có thể ức chế sự chuyển hóa của các thuốc chẹn kênh calci. Vì vậy cần thận trọng khi sử dụng đồng thời itraconazole và thuốc chẹn kênh calci vì làm gia tăng nguy cơ suy tim sung huyết.
    Khả năng tương tác thuốc
    SPORANOX IV có khả năng gây những tương tác thuốc quan trọng trên lâm sàng (Xem phần Tương tác thuốc).
    Sử dụng ở trẻ em
    Vì không có dữ liệu nghiên cứu lâm sàng về việc dùng SPORANOX IV ở bệnh nhi, không nên dùng SPORANOX IV ở trẻ em trừ khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ có thể xảy ra.
    Sử dụng ở người lớn tuổi
    Vì các dữ liệu nghiên cứu lâm sàng về việc dùng SPORANOX IV ở người lớn tuổi còn hạn chế, khuyên chỉ nên dùng SPORANOX IV ở những bệnh nhân này khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ có thể xảy ra.
    Ảnh hưởng lên gan
    Rất hiếm các trường hợp nhiễm độc gan nặng, bao gồm vài trường hợp suy gan cấp tử vong, đã được báo cáo ở bệnh nhân sử dụng SPORANOX. Hầu hết những trường hợp này có liên quan đến bệnh nhân có tiền sử bệnh gan, đã được điều trị toàn thân hoặc có những bệnh lý nội khoa quan trọng khác và/hoặc đã sử dụng kèm những thuốc khác có độc tính trên gan. Một vài bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ rõ ràng về bệnh gan. Một số trường hợp xuất hiện dấu hiệu suy gan trong tháng đầu điều trị, kể cả vài trường hợp trong tuần đầu. Nên cân nhắc việc theo dõi chức năng gan ở bệnh nhân điều trị với SPORANOX. Nên hướng dẫn cho bệnh nhân phải báo ngay cho bác sỹ những dấu hiệu và triệu chứng gợi ý viêm gan như biếng ăn, buồn nôn, nôn, mệt mỏi, đau bụng hoặc nước tiểu sậm màu. Phải ngưng ngay việc điều trị với SPORANOX ở những bệnh nhân này và theo dõi chức năng gan. Ở những bệnh nhân bị tăng men gan hay có bệnh gan tiến triển hoặc đã từng bị nhiễm độc gan do những thuốc khác, không nên bắt đầu điều trị với SPORANOX trừ khi mong đạt được lợi ích nhiều hơn nguy cơ tổn thương gan. Trong những trường hợp như vậy, theo dõi sát men gan là cần thiết.
    Suy gan
    Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện với itraconazole đường tĩnh mạch ở những bệnh nhân suy gan. Những dữ liệu lâm sàng hạn chế liên quan đến việc sử dụng itraconazole đường uống ở những bệnh nhân suy gan.Vì vậy nên thận trọng khi sử dụng thuốc ở nhóm bệnh nhân này (Xem phần Liều dùng và phương pháp sử dụng và Dược động học)
    Suy thận
    Hydroxypropyl-â cyclodextrin, khi dùng đường tĩnh mạch, thì sẽ bị thải qua lọc cầu thận. Vì vậy, ở những bệnh nhân có suy thận được định nghĩa là độ thanh thải creatinine thấp hơn 30 mL/phút, SPORANOX IV bị chống chỉ định (Xem phần Chống chỉ định).
    Ở những bệnh nhân có suy chức năng thận mức độ nhẹ tới trung bình, phải thận trọng khi sử dụng SPORANOX IV. Nồng độ creatinine huyết thanh phải được theo dõi sát và, nếu nghi ngờ có độc thận thì nên đổi qua SPORANOX dạng viên nang.
    Tính quá mẫn cảm chéo
    Không có thông tin nào liên quan đến tính quá mẫn cảm chéo giữa itraconazole và các thuốc kháng nấm thuộc nhóm azole khác. Cần thận trọng trong việc kê toa SPORANOX IV cho những bệnh nhân quá mẫn với các thuốc thuộc nhóm azole khác.
    Bệnh lý thần kinh
    Nếu xảy ra bệnh lý thần kinh mà có thể quy cho SPORANOX IV, nên ngưng điều trị.
    Mất thính lựcMất thính lực thoáng qua hay vĩnh viễn đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị với itraconazole. Nhiều báo cáo trong số này bao gồm có sử dụng đồng thời quinidine vốn bị chống chỉ định (xem phần Chống chỉ định và phần Tương tác thuốc, mục Ảnh hưởng của itraconazole trên chuyển hóa của các thuốc khác). Mất thính lực thường hết khi ngưng thuốc, nhưng có thể kéo dài ở một số bệnh nhân.
    Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và sử dụng máy móc: Không ảnh hưởng.
    Lúc có thai và lúc nuôi con bú
    Thai kì
    SPORANOX IV không được sử dụng trong thai kỳ ngoại trừ những trường hợp đe doạ tính mạng mà đã cân nhắc thấy lợi ích điều trị cho mẹ cao hơn nguy cơ có hại cho thai nhi (xem phần Chống chỉ định).
    Ở nghiên cứu itraconazole trên động vật cho thấy độc tính trên sinh sản (xem phần An toàn tiền lâm sàng).
    Các thông tin về sử dụng SPORANOX ở phụ nữ có thai còn hạn chế. Kinh nghiệm sử dụng sau khi đưa ra thị trường, đã có những báo cáo các trường hợp bất thường bẩm sinh, bao gồm những dị tật về xương, về đường niệu sinh dục, về hệ tim mạch, dị tật nhãn khoa cũng như các dị tật về nhiễm sắc thể và đa dị tật. Mối liên hệ nhân quả với việc sử dụng SPORANOX đã không được thiết lập.
    Dữ liệu dịch tễ học về việc sử dụng SPORANOX trong 3 tháng đầu thai kỳ – đa phần là ở những bệnh nhân điều trị nấm candida âm đạo, âm hộ với liều điều trị ngắn hạn, không thấy tăng thêm nguy cơ dị tật so với nhóm chứng, là những bệnh nhân không dùng bất kỳ thuốc nào có khả năng gây dị tật thai.
    Phụ nữ có khả năng mang thai
    Phụ nữ có khả năng mang thai khi dùng thuốc SPORANOX IV nên sử dụng các biện pháp phòng tránh thai. Nên tiếp tục sử dụng các phương pháp ngừa thai hiệu quả sau khi ngưng điều trị SPORANOX IV cho tới kì kinh kế tiếp
    Cho con bú
    Chỉ một lượng rất nhỏ itraconazole được tiết ra trong sữa mẹ. Vì vậy, nên cân nhắc lợi ích điều trị bằng SPORANOX IV với nguy cơ có thể có khi cho con bú. Trong trường hợp nghi ngờ, bệnh nhân không nên cho con bú.

    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

    Thử nghiệm lâm sàng
    Hiệu quả và tính an toàn của SPORANOX IV được so sánh với amphotericin B đường tĩnh mạch trong điều trị theo kinh nghiệm ở những bệnh nhân giảm bạch cầu hạt và có bệnh lý ác tính về máu trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, nhãn mở. Khoảng 90% bệnh nhân được điều trị với SPORANOX IV và khoảng 94% bệnh nhân được điều trị với amphotericin B đã có ít nhất một biến cố ngoại ý. Bảng bên dưới trình bày tất cả các biến cố ngoại ý (với tỷ lệ mắc phải là 10% hoặc hơn) được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị với SPORANOX. Những biến cố ngoại ý được tóm tắt và không tính đến các đánh giá của nhà nghiên cứu về mối liên hệ nhân quả giữa thuốc nghiên cứu và biến cố ngoại ý.
    Bảng 1: Những biến cố ngoại ý được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị với SPORANOX với tỷ lệ mắc phải ≥ 10%

    SPORANOX IV N=192 % Amphotericin B N=192 %
    Các rối loạn ở dạ dày ruột 59 59
    Tiêu chảy 20 28
    Buồn nôn 24 23
    Nôn 19 21
    Rối loạn về dinh dưỡng và chuyển hóa 36 61
    Hạ kali máu 18 31
    Rối loạn ở hệ hô hấp 40 37
    Ho 13 5
    Rối loạn ở da và phần phụ 29 25
    Nổi mẫn 13 7

    Kinh nghiệm sau khi đưa ra thị trường
    Những phản ứng có hại của thuốc từ các báo cáo tự phát sau khi SPORANOX được đưa ra thị trường trên thế giới (bao gồm tất cả các dạng bào chế) nếu thỏa các tiêu chuẩn ngưỡng đều được đưa vào Bảng 2. Những phản ứng có hại của thuốc được xếp loại theo tần suất, sử dụng các quy ước sau:
    Rất thường gặp (≥ 1/10)
    Thường gặp (≥ 1/100 và <1/10)
    Ít gặp (≥ 1/1.000 và <1/100)
    Hiếm gặp (≥ 1/10.000 và <1/1.000)
    Rất hiếm gặp (<1/10.000), bao gồm cả những báo cáo riêng biệt
    Tần suất dưới đây phản ánh tỉ lệ báo cáo các phản ứng có hại của thuốc từ những báo cáo tự phát và không thể hiện được các ước lượng chính xác hơn về tỷ lệ mắc phải có thể thu được từ những nghiên cứu lâm sàng hay dịch tễ.
    Bảng 2: Báo cáo về các phản ứng có hại liên quan đến thuốc sau khi đưa ra thị trường
    Rối loạn hệ thống máu và bạch huyết
    Rất hiếm: giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu
    Rối loạn hệ miễn dịch
    Rất hiếm: bệnh huyết thanh, phù nề thần kinh mạch, quá mẫn cảm, phản ứng phản vệ và dị ứng
    Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng
    Rất hiếm: tăng triglycerid máu, giảm kali máu
    Rối loạn hệ thống thần kinh
    Rất hiếm: bệnh thần kinh ngoại vi, dị cảm, giảm xúc giác, đau đầu, chóng mặt
    Rối loạn thị giác
    Rất hiếm: rối loạn thị giác, bao gồm nhìn mờ và nhìn đôi
    Rối loạn thính giác (tai trong và tai ngoài)
    Rất hiếm: ù tai, mất thính giác thoáng qua hoặc vĩnh viễn
    Rối loạn tim mạch
    Rất hiếm: suy tim sung huyết
    Rối loạn hô hấp, ngực và trung thất
    Rất hiếm: phù phổi, khó thở
    Rối loạn tiêu hóa
    Rất hiếm: viêm tụy, đau bụng, nôn, khó tiêu, buồn nôn, tiêu chảy, táo bón, loạn vị giác
    Rối loạn gan – mật
    Rất hiếm: độc tính gan nghiêm trọng (bao gồm một số trường hợp suy gan cấp gây tử vong), viêm gan, tăng men gan có hồi phục.
    Rối loạn về da và mô dưới da
    Rất hiếm: hoại tử biểu bì do độc tính của thuốc, hội chứng Stevens-Johnson, mụn mủ ngoại ban cấp tính, ban đỏ đa thể, viêm tróc da, viêm mạch bạch huyết, chứng mề đay, rụng tóc, nhạy cảm với ánh sáng, phát ban, ngứa.
    Rối loạn cơ xương và mô liên kết
    Rất hiếm: đau cơ, đau khớp
    Rối loạn thận, niệu
    Rất hiếm: chứng đái lắt nhắt, tiểu không kiểm soát
    Rối loạn hệ sinh sản và vú
    Rất hiếm: Rối loạn kinh nguyệt, rối loạn cương
    Rối loạn chung và tình trạng nơi tiêm truyền
    Rất hiếm: phù nề, sốt
    Lưu ý bệnh nhân thông báo cho bác sỹ những tác dụng phụ không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

    TƯƠNG TÁC

    1. Những thuốc ảnh hưởng lên sự chuyển hóa của itraconazole
    Itraconazole được chuyển hóa chủ yếu bởi men cytochrome CYP3A4. Những nghiên cứu về tương tác thuốc đã được thực hiện với rifampicine, rifabutin, và phenytoin là những chất có khả năng cao cảm ứng men CYP3A4. Vì khả dụng sinh học của itraconazole và hydroxy-itraconazole giảm đi trong những nghiên cứu này tới một mức độ làm giảm hiệu quả điều trị rất nhiều, không nên kết hợp thuốc với những chất cảm ứng men mạnh này. Hiện chưa có dữ liệu nghiên cứu chính thức cho các thuốc cảm ứng men khác như carbamazepine, phenobarbital và isoniazid, nhưng có thể dự đoán sẽ xảy ra những tác động tương tự.
    Những chất ức chế mạnh enzyme này như: ritonavir, indinavir, clarithromycine và erythromycin có thể làm tăng khả dụng sinh học của itraconazole.
    2. Ảnh hưởng của itraconazole lên sự chuyển hóa của những thuốc khác
    2.1. Itraconazole có thể ức chế sự chuyển hoá của những thuốc được chuyển hoá bởi men cytochrome họ 3A. Điều này có thể đưa đến sự gia tăng và/hoặc kéo dài tác dụng của chúng, kể cả tác dụng phụ. Khi sử dụng điều trị đồng thời, nên tham khảo các thông tin kê toa tương ứng về thông tin đường chuyển hóa. Sau khi ngưng điều trị, nồng độ itraconazole trong huyết tương giảm dần tùy thuộc vào liều dùng và thời gian điều trị (xem phần Dược động học). Cần quan tâm đến vấn đề này khi xem xét tác dụng ức chế của itraconazole trên những thuốc dùng chung.
    Ví dụ như:
    Các thuốc sau chống chỉ định dùng chung với itraconazole:
    – Astemizole, bepridil, cisapride, dofetilide, levacetylmethadol (levomethadyl), mizolastine, pimozide, quinidine, sertindole và terfenadine là chống chỉ định dùng chung với SPORANOX vì khi dùng chung có thể làm tăng nồng độ các thuốc này trong huyết tương, mà có thể dẫn đến kéo dài đoạn QT và trường hợp hiếm có thể xảy ra xoắn đỉnh.
    – Các thuốc ức chế men HMG-CoA reductase được chuyển hóa bởi CYP3A4 như là lovastatin và simvastatin.
    – Các thuốc triazolame và midazolame uống.
    – Các thuốc ergot alkaloid như là dihydroergotamine, ergometrine (ergonovine), ergotamine và methylergometrine (methylergonovine).
    – Nisoldipine
    Nên thận trọng cân nhắc khi sử dụng đồng thời itraconazole và thuốc chẹn kênh calci vì làm tăng nguy cơ bị suy tim sung huyết. Ngoài những tương tác về dược động học có thể xảy ra có liên quan với những thuốc chuyển hóa bởi men CYP3A4, thuốc chẹn kênh calci có thể có tác động inotrope âm, mà có thể cộng hợp với tác động inotrope âm của itraconazole.
    Nên thận trọng khi dùng những thuốc sau, và phải theo dõi nồng độ thuốc trong huyết tương, tác dụng hay tác dụng phụ. Nếu điều trị phối hợp với itraconazole, các thuốc này nên giảm liều khi cần:
    – Thuốc chống đông đường uống;
    – Thuốc ức chế protease HIV như là indinavir, ritonavir và saquinavir;
    – Một số thuốc điều trị ung thư như là busulphan, docetaxel, trimetrexate và vinca alkaloid;
    – Thuốc ức chế calci chuyển hóa bởi CYP3A4 như là dihydropyridine và verapamil;
    – Một số thuốc ức chế miễn dịch: cyclosporine, rapamycin (còn được gọi là sirolimus), tacrolimus;
    – Một số chất ức chế men HMG-CoA reductase được chuyển hóa bởi CYP3A4 như atorvastatin;
    – Một số glucocorticosteroid như budesonide, dexamethasone, fluticasone và methylprednisolone;
    – Digoxin (thông qua ức chế P-glycoprotein);
    – Những thuốc khác như: alfentanil, alprazolam, brotizolam, buspirone, carbamazepine, cilostazol, disopyramide, ebastine, eletriptan, fentanyl, halofantrine, midazolam IV, reboxetine, repaglinide, rifabutin.
    2.2. Không quan sát thấy có tương tác giữa itraconazole với zidovudine (AZT) và fluvastatine.
    Không quan sát thấy có ảnh hưởng của itraconazole trên chuyển hóa của ethinyloestradiol và norethisterone.
    3. Ảnh hưởng trên gắn kết protein
    Những nghiên cứu in vitro đã cho thấy không có sự tương tác trên sự gắn protein huyết tương giữa itraconazole và imipramine, propranolol, diazepam, cimetidine, indomethacine, tolbutamide và sulfamethazine.

    TƯƠNG KỴ

    SPORANOX IV chỉ được pha với 50 ml dung môi tiêm Natri Chloride 0,9%, là dung môi được cung cấp kèm theo.
    Dung môi tiêm Natri Chloride 0,9% thì tương thích với nhiều loại thuốc, bao gồm SPORANOX IV.
    Itraconazole có xu hướng kết tủa khi SPORANOX IV được hòa tan trong dung môi khác ngoài 50 ml dung môi Natri Chloride 0,9% được cung cấp.

    QUY CÁCH ĐÓNG GÓI

    Dung dịch thuốc và dung môi pha truyền.
    SPORANOX IV 10 mg/ml dung dịch thuốc và dung môi pha truyền (Dịch pha tiêm Natri Chloride 0,9%) được đóng gói thành một bộ bao gồm:
    1. SPORANOX IV 10 mg/ml dung dịch thuốc tiêm, một dung dịch không màu được chứa trong một ống tiêm 25 ml bằng thủy tinh loại I không màu.
    2. Dịch pha tiêm 0,9 % Natri Chloride dùng để pha thuốc được chứa trong một túi polypropylene 50 ml (thể tích 75 ml).
    3. Dây nối có khóa van 2 chiều và bộ lọc bên trong.

    BẢO QUẢN

    Ống tiêm SPORANOX IV: Không được bảo quản ở nhiệt độ trên 25oC. Giữ ống tiêm trong hộp carton.
    Dung dịch tiêm Natri Chloride 0,9%: Không được bảo quản ở nhiệt độ trên 25oC. Không được đông lạnh.
    Dung dịch thuốc sau khi pha: tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời.
    Theo quan điểm vi sinh học, thì thuốc sau khi pha nên được sử dụng ngay lập tức. Nếu không được sử dụng ngay, thì thời gian bảo quản để sử dụng và các điều kiện bảo quản trước khi sử dụng là trách nhiệm của người dùng và thường không được kéo dài quá 24 giờ ở nhiệt độ từ 2oC tới 8oC, trừ khi các thao tác pha thuốc được thực hiện trong các điều kiện vô trùng đã được thẩm định và kiểm soát.

    NHÀ SẢN XUẤT

    Nhà sản xuất: Janssen-Cilag

    ban thuoc Sporanox IVgia thuoc Sporanox IV mua thuoc Sporanox IV o dau, Thuốc Sporanox IV , thuoc Sporanox IVgiá thuốc Sporanox IV bao nhiêuSporanox IV có tốt không, giá Sporanox IVSporanox IV mua ở đâuSporanox IV giá bao nhiêu, Sporanox IV bán ở đâu, cách dùng Sporanox IV Sporanox IV có tác dụng gì, tac dung phu cua thuoc Sporanox IV , Sporanox IV gia bao nhieu, tac dung phu Sporanox IV , mua thuoc Sporanox IV o dau uy tin, cach dung Sporanox IV , lieu dung Sporanox IV , Sporanox IV liều dùng,

    error: Content is protected !!

    Chúng tôi Thiết kế website du lịch , Thiết kế website khách sạnThiết kế website nội thất, kiến trúc